Skip to main content

System Messages

You were not authenticated by the server. You may log in with your credentials below.

CESCR - Bình luận chung số 06

Phiên bản PDF

Ngày ban hành

20/11/1995

1. Tuổi thọ của dân số thế giới đang gia tăng ở mức đáng kể. Tổng số người có tuổi thọ từ 60 trở lên tăng từ 200 triệu vào năm 1950 lên 400 triệu vào năm 1982, dự đoán tăng lên 600 triệu vào năm 2001 và sẽ ở mức 1,2 tỉ vào năm 2025. Tại thời điểm đó, hơn 70% số người này sẽ sống ở các nước mà ngày nay được coi là nước đang phát triển. Số người ở độ tuổi 80 trở lên đã tăng và sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn nữa, từ 13 triệu vào năm 1950 đến nay đã tăng lên hơn 50 triệu và dự tính sẽ tăng lên 137 triệu vào năm 2025. Đây là nhóm dân số gia tăng nhanh nhất trên thế giới, tiên đoán sẽ tăng với hệ số 10 trong giai đoạn từ năm 1950 và 2025, so với hệ số 6 của độ tuổi từ 60 trở lên, và một hệ số khiêm tốn nhỏ hơn 3 cho tổng dân số1.

2. Những con số này minh chứng cho một cuộc cách mạng ngầm nhưng gây ra hậu quả lâu dài, khôn lường và hiện nay đang gây ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế, xã hội cả ở mức độ toàn cầu và quốc gia, và mức độ ảnh hưởng này sẽ trầm trọng hơn trong tương lai.

3. Hầu hết các quốc gia thành viên Công ước và các quốc gia công nghiệp hóa nói chung đang đối mặt với nhiệm vụ điều chỉnh chính sách xã hội do sự gia tăng tuổi thọ của dân số, đặc biệt trong vấn đề an sinh xã hội. Ở những quốc gia đang phát triển, sự thiếu vắng hoặc thiếu hụt các chương trình an sinh xã hội đang làm cho nạn di cư của những thành viên trẻ trong dân số gia tăng và hậu quả là làm yếu vai trò truyền thống của gia đình mà đóng vai trò hỗ trợ chính cho người cao tuổi.

  1. Các chính sách quốc tế liên quan đến người cao tuổi

4. Năm 1982 Hội nghị thế giới về người cao tuổi đã thông qua Kế hoạch hành động quốc tế Viên về người cao tuổi. Tài liệu quan trọng này đã được Đại hội đồng ủng hộ và là bản hướng dẫn rất bổ ích về các biện pháp cụ thể mà các Quốc gia thành viên cần áp dụng để bảo vệ quyền của người cao tuổi trong bối cảnh của các công ước quốc tế về quyền con người. Tài liệu này gồm 62 khuyến nghị, rất nhiều trong số đó phù hợp trực tiếp với Công ước2.

5. Năm 1991, Đại hội đồng đã thông qua các Nguyên tắc của Liên hợp quốc về người cao tuổi, mà do tính chất định hướng của nó, đây cũng là một tài liệu quan trọng hiện nay3. Nguyên tắc này được chia thành năm phần, có liên quan chặt chẽ với các quyền được ghi nhận trong Công ước. “Độc lập” bao gồm được tiếp cận đầy đủ lương thực, nước uống, nhà ở, quần áo và chăm sóc y tế. Những quyền cơ bản này là cơ hội để tạo việc làm và tiếp cận giáo dục và đào tạo. “Tham gia” nghĩa là người cao tuổi cần tham gia tích cực vào quá trình hình thành và thực hiện những chính sách có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ và chia sẻ kiến thức và kỹ năng của họ với thế hệ trẻ, và cần được tham gia thành lập các phong trào và hiệp hội.  Phần có tiêu đề “Chăm sóc” chỉ ra rằng người cao tuổi phải được hưởng sự chăm sóc của gia đình, chăm sóc y tế, hưởng các quyền và tự do cơ bản của con người khi ở trong trại dưỡng lão, được hưởng các dịch vụ chăm sóc hay điều trị. Sự chăm sóc người cao tuổi cần dựa trên nguyên tắc “tự thực hiện” - nguyên tắc để người cao tuổi theo đuổi những cơ hội được phát triển đầy đủ khả năng của mình thông qua tiếp cận với các nguồn lực về giáo dục, văn hóa, tinh thần và giải trí trong xã hội. Cuối cùng, phần có tiêu đề “Nhân phẩm” chỉ ra rằng người cao tuổi cần được sống trong nhân phẩm và an ninh, không bị lạm dụng, bóc lột về thể chất và tinh thần, được đối xử công bằng bất kể tuổi tác, giới tính, chủng tộc, sắc tộc,  sự khuyết tật, tình trạng tài chính hay bất cứ một tình trạng nào khác, và phải đánh giá một cách độc lập những đóng góp kinh tế của họ.

6. Năm 1992, Đại hội đồng đã thông qua tám mục tiêu toàn cầu về người cao tuổi cho năm 2001 và một hướng dẫn ngắn gọn để thiết lập các mục tiêu quốc gia. Trong một số những khía cạnh quan trọng, các chỉ tiêu toàn cầu này giúp cho việc củng cố trách nhiệm của các Quốc gia thành viên Công ước4.

7. Cũng vào năm 1992, trong lễ kỉ niệm lần thứ 10 ngày thông qua Kế hoạch hành động quốc tế Viên, Đại hội đồng đã thông qua Tuyên bố về người cao tuổi trong đó bao gồm các nội dung quan trọng như: kêu gọi sự hỗ trợ sáng kiến của quốc gia về vấn đề người cao tuổi; phụ nữ cao tuổi được nhận trợ giúp đầy đủ vì sự đóng góp to lớn nhưng không được công nhận của họ cho xã hội; nam giới cao tuổi được khuyến khích phát triển năng lực xã hội, văn hóa và  tinh thần mà họ có thể bị hạn chế phát triển trong những năm tháng lao động kiếm sống; gia đình được hỗ trợ trong việc chăm sóc và tất cả các thành viên trong gia đình được khuyến khích hợp tác để chăm sóc người cao tuổi; và mở rộng hợp tác quốc tế trong khuôn khổ của chiến lược để đạt đến mục tiêu toàn cầu về tuổi thọ vào năm 2001. Năm 1999 cũng được công nhận là Năm quốc tế của người cao tuổi nhằm cảnh báo rằng dân số của nhân loại "bước vào thời kỳ cao tuổi"5.

8. Các cơ quan chuyên trách của Liên hợp quốc, đặc biệt là Tổ chức Lao động quốc tế, cũng lưu ý về những vấn đề tuổi tác trong các lĩnh vực tương ứng với thẩm quyền của mình.

  1. Quyền của người cao tuổi trong mối quan hệ với Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

9. Thuật ngữ dùng để mô tả người cao tuổi khá đa dạng, kể cả trong các tài liệu quốc tế, chúng bao gồm: “người cao tuổi”, “người già”, “người già cả”, “thế hệ thứ ba”; “người có tuổi”, và để biểu thị những người từ 80 tuổi trở lên, thuật ngữ được dùng là “thế hệ thứ tư”. Ủy ban  đã chọn thuật ngữ “người cao tuổi” (older person, trong tiếng Pháp là: personnes agee, tiếng Tây Ban Nha là: personas mayores), từ này được sử dụng trong các Nghị quyết 47/5 và 48/98 của Đại hội đồng. Theo kinh nghiệm của cơ quan thống kê Liên hiệp quốc, những thuật ngữ này bao hàm cả những người từ 60 tuổi trở lên (Eurostat - Cơ quan Thống kê của Liên minh châu Âu coi “người cao tuổi” là những người từ 65 tuổi trở lên, vì tuổi về hưu thông thường nhất là 65 tuổi và xu hướng nghỉ hưu ngày càng muộn hơn).

10. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa không đưa ra quy định cụ thể nào về quyền của người cao tuổi, tuy nhiên Điều 9 đề cập  đến “quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội, bao gồm cả bảo hiểm xã hội” nhằm ghi nhận các lợi ích của người cao tuổi. Tuy nhiên, theo quan điểm thực tế thì quy định của Công ước áp dụng đầy đủ cho tất cả các thành viên trong xã hội, điều này rõ ràng là người cao tuổi cũng được hưởng đầy đủ các quyền đã công nhận trong Công ước. Cách tiếp cận này cũng được phản ánh đầy đủ trong Kế hoạch hành động quốc tế Viên về người cao tuổi. Thêm vào đó, khi việc tôn trọng quyền của người cao tuổi cần phải áp dụng biện pháp đặc biệt thì Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên cần huy động tới mức tối đa nguồn lực sẵn có của họ để thực hiện các biện pháp đó.

11. Một vấn đề quan trọng khác nữa là liệu sự phân biệt đối xử về tuổi tác có bị nghiêm cấm bởi Công ước hay không. Cả Công ước và Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người đều không đề cập một cách cụ thể đến yếu tố tuổi tác như là một cơ sở của việc nghiêm cấm phân biệt đối xử. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là yếu tố này bị loại trừ, mà là do thực tế khi những văn kiện này được thông qua, tuổi tác của dân số chưa được coi là vấn đề rõ ràng và mang tính áp lực như hiện nay.

12. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề có tính quyết định vì việc cấm phân biệt đối xử dựa trên các “yếu tố khác” có thể được hiểu là áp dụng cả với vấn đề tuổi tác. Ủy ban đã lưu ý rằng trong khi vẫn chưa kết luận được rằng phân biệt đối xử trên cơ sở tuổi tác là hoàn toàn bị nghiêm cấm theo Công ước thì cũng chỉ có rất ít sự phân biệt đối xử với người cao tuổi được chấp nhận. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng việc không thể chấp nhận phân biệt đối xử với người cao tuổi đã được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện quốc tế và được khẳng định trong pháp luật của nhiều quốc gia. Trong một vài lĩnh vực mà sự phân biệt đối xử tiếp tục được khoan dung, chẳng hạn liên quan đến tuổi về hưu có tính chất bắt buộc hoặc tuổi tiếp cận giáo dục đại học thì xu hướng rõ ràng là cần xóa bỏ những rào cản này. Ủy ban cho rằng các quốc gia thành viên cần tìm cách xóa bỏ những rào cản này ở phạm vi lớn nhất như có thể.

13. Do đó, Ủy ban cho rằng các quốc gia thành viên có nghĩa vụ lưu ý đặc biệt đến việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người cao tuổi. Điều này là bởi theo Ủy ban, không giống như các nhóm xã hội khác chẳng hạn như phụ nữ và trẻ em, quyền của nhóm người cao tuổi hiện nay chưa được đề cập bởi một công ước quốc tế và cơ chế giám sát quốc tế riêng. 

14. Tính đến phiên họp thứ 14, Ủy ban và cơ quan tiền nhiệm trước đó là Nhóm công tác của đại diện các chuyên gia của chính phủ đã xem xét 144 báo cáo ban đầu, 70 báo cáo định kỳ lần hai và 20 báo cáo định kỳ lần 1 của các quốc gia liên quan đến các Điều từ 1 đến 15 của Công ước. Việc xem xét này đã giúp xác định được rất nhiều vấn đề liên quan đến việc thực thi Công ước ở nhiều quốc gia thành viên đại diện cho các khu vực trên thế giới từ các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa khác nhau. Cho đến nay, trong số những báo cáo được xem xét vẫn chưa có báo cáo nào cung cấp thông tin một cách hệ thống về tình hình người cao tuổi liên quan đến Công ước, ngoài những thông tin liên quan đến việc thực hiện Điều 9 về quyền an sinh xã hội.

15. Năm 1993, Ủy ban đã tổ chức một ngày thảo luận chung về vấn đề này để lên kế hoạch hoạt động trong tương lai trong việc thúc đẩy quyền của người cao tuổi. Thêm vào đó, trong các phiên họp gần đây, Uỷ ban bắt đầu yêu cầu cung cấp nhiều thông tin hơn về quyền và những vấn đề liên quan đến người cao tuổi, và đã thu được nhiều thông tin có giá trị trong một số vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, Uỷ ban cũng lưu ý rằng đa số báo cáo của các Quốc gia thành viên vẫn chưa chú ý đến vấn đề quan trọng này. Vì vậy, Uỷ ban mong muốn rằng, trong tương lai vấn đề người cao tuổi liên quan đến từng quyền của Công ước sẽ được quan tâm trong tất cả các báo cáo quốc gia. Phần còn lại của Bình luận chung này sẽ xác định những vấn đề cụ thể có liên quan.

      Nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên

16.  Người cao tuổi là một nhóm dân số đa dạng và không đồng nhất, tình trạng của họ phụ thuộc vào tình hình kinh tế, xã hội, vào các yếu tố nhân học, môi trường, văn hóa và công ăn việc làm; ở cấp độ cá nhân thì phụ thuộc vào tình trạng gia đình, trình độ giáo dục, môi trường sống và nghề nghiệp, việc vẫn còn tham gia lao động hay đã nghỉ hưu.

17. Trong số những người cao tuổi, có những người còn sức khỏe và có tình trạng tài chính tốt, trong khi nhiều người không có đủ các nguồn hỗ trợ, ngay cả ở những nước phát triển, thậm chí một số người rơi vào nhóm dễ bị tổn thương, bị cô lập hoá và ít được bảo vệ nhất. Trong thời kỳ diễn ra những suy thoái và thay đổi về cơ chế kinh tế, người cao tuổi đặc biệt bị rủi ro. Như Uỷ ban đã nhấn mạnh trong Bình luận chung số 3 (1990, đoạn 12), các quốc gia thành viên có nhiệm vụ bảo vệ những thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội kể cả trong thời kỳ bị khủng hoảng nhất về nguồn lực.

18. Các biện pháp mà Quốc gia thành viên cần sử dụng để thực hiện nghĩa vụ của mình với người cao tuổi theo Công ước về cơ bản giống như việc thực hiện các nghĩa vụ khác (xem Bình luận chung số 1,1989). Chúng  bao gồm yêu cầu quyết định bản chất và phạm vi của vấn đề trong mỗi quốc gia qua việc giám sát thường xuyên, yêu cầu thông qua các chương trình, chính sách được thiết kế đúng đắn, yêu cầu ban hành pháp luật khi cần thiết và xóa bỏ bất cứ điều luật nào mang tính chất phân biệt đối xử, và yêu cầu đảm bảo sự hỗ trợ tài chính  hoặc kêu gọi hợp tác quốc tế khi cần thiết. Liên quan đến nhu cầu hỗ trợ tài chính, sự hợp tác quốc tế theo Điều 22 và 23 của Công ước là phương thức đặc biệt quan trọng nhằm tạo điều kiện cho một số nước đang phát triển thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước.

19. Liên quan đến khía cạnh trên, cần lưu ý đến Mục tiêu toàn cầu số 1 được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào năm 1992 với nội dung kêu gọi xây dựng các cơ sở hạ tầng hỗ trợ quốc gia để thúc đẩy các chính sách và chương trình về người cao tuổi trong khuôn khổ kế hoạch và chương trình phát triển của quốc gia và quốc tế. Về vấn đề này, Uỷ ban lưu ý rằng một trong những nguyên tắc của Liên hợp quốc về người cao tuổi là khuyến khích người cao tuổi tự hình thành các phong trào, hiệp hội riêng của mình.

5. Quy định cụ thể của Công ước

Điều 3: Quyền bình đẳng của nam nữ

20. Theo Điều 3 của Công ước, các quốc gia thành viên phải ‘‘đảm bảo quyền bình đẳng của nam nữ trong việc hưởng thụ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”. Uỷ ban cho rằng các Quốc gia thành viên cần đặc biệt lưu ý đến phụ nữ cao tuổi, vì họ đã dành tất cả hoặc một phần cuộc đời của mình cho việc chăm sóc gia đình mà không tham gia hoạt động tạo thu nhập nào để được hưởng lương hưu khi về già, và cũng không được hưởng lương cho người góa nên thường ở trong hoàn cảnh rất khó khăn.

21. Để giải quyết những trường hợp như và để tuân thủ đầy đủ Điều 9 của Công ước và quy định ởđoạn  2(h) Tuyên ngôn về vấn đề người cao tuổi, các quốc gia thành viên cần xây dựng quỹ trợ cấp cho người già không có nguồn phụ cấp hoặc các hình thức hỗ trợ khác cho tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, mà không có nguồn lực hỗ trợ nào khi đạt đến độ tuổi cụ thể theo luật pháp quốc gia. Do tuổi thọ của phụ nữ ngày càng được nâng cao và xuất phát từ thực tế là họ thường không có lương hưu nên phụ nữ cần được coi là đối tượng cơ bản của các chương trình trợ cấp như vậy.

Các Điều từ 6 đến 8: Các quyền liên quan đến việc làm

22.Điều 6 của Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải tiến hành những biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền của mọi ngư­ời có cơ hội kiếm sống bằng công việc do chính mình tự do lựa chọn.Về mặt này, Uỷ ban nhận thức được rằng những người lao động cao tuổi nhưng ch­ưa đến tuổi nghỉ hưu luôn phải đ­ương đầu với những khó khăn trong việc tìm kiếm và giữ việc làm. Uỷ ban nhấn mạnh đến nhu cầu cần có các biện pháp chống phân biệt đối xử đối với những người lao động ở độ tuổi này trong việc làm và nghề nghiệp.6

23. Quyền “được hư­ởng các điều kiện công bằng và thuận lợi trong công việc” (Điều 7 của Công ước) có tầm quan trọng đặc biệt trong việc đảm bảo những điều kiện làm việc an toàn cho những lao động cao tuổi cho đến khi họ nghỉ h­ưu. Cụ thể hơn, ngư­ời lao động cao tuổi cần được sử dụng trong những trường hợp cần đến kinh nghiệm và bí quyết của họ.7

24. Trong thời gian sắp nghỉ hư­u, các chương trình chuẩn bị cho việc nghỉ h­ưu cần được thực hiện đầy đủ với sự tham gia của các tổ chức đại diện của giới chủ, ngư­ời lao động và các cơ quan liên quan để chuẩn bị cho ng­ười lao động đối phó với tình huống mới của họ. Các chương trình như thế cần cung cấp cho ng­ười lao động cao tuổi những thông tin về các vấn đề như: quyền và nghĩa vụ h­ưu trí của họ; các cơ hội và điều kiện cho sự tiếp tục hoạt động nghề nghiệp hoặc công việc tự nguyện; các phương pháp­ đối phó với tác động có hại của tuổi già; cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hoá và giáo dục cho ngư­ời cao tuổi và việc sử dụng thời gian rỗi.8

25. Các quyền được bảo vệ bởi Điều 8 Công ước, cụ thể là quyền tham gia công đoàn sau khi ngư­ời lao động nghỉ h­ưu, cũng phải được áp dụng đối với ngư­ời lao động cao tuổi.                 

Điều 9: Quyền an sinh xã hội

26. Điều 9 Công ước chỉ qui định chung rằng tất cả các quốc gia thành viên phải “ghi nhận quyền an sinh xã hội của mọi người”, chứ không phân biệt các hình thức và mức độ bảo vệ được đảm bảo. Tuy nhiên, thuật ngữ “an sinh xã hội” hoàn toàn bao gồm tất cả những rủi ro liên quan đến việc mất kế sinh nhai vì những lý do ngoài tầm kiểm soát của người đó.

27. Theo Điều 9 Công ước và các điều khoản liên quan trong các Công ước về an sinh xã hội của ILO, cụ thể như Công ước số 102 về An sinh xã hội (các tiêu chuẩn tối thiểu) (1952) và Công ước số 128 về trợ cấp cho người khuyết tật, người già, người gặp nạn (1967) – các quốc gia thành viên phải có những biện pháp hợp lý để thiết lập một cơ chế bảo hiểm tuổi già bắt buộc, bắt đầu ở độ tuổi nhất định tuỳ theo luật quốc gia.

28. Cùng với các đề nghị trong hai Công ước của ILO mà đã đề cập ở trên và trong Kiến nghị số 162 của tổ chức này, Uỷ ban khuyến nghị các quốc gia thành viên xác định độ tuổi về hưu linh hoạt, phụ thuộc vào nghề nghiệp và khả năng làm việc của người cao tuổi, dựa trên các yếu tố về dân số học, kinh tế và xã hội.

29. Để đem thực hiện hiệu quả các quy định của Điều 9 Công ước, các quốc gia thành viên  phải bảo đảm trợ cấp cho người gặp nạn và trẻ mồ côi khi người bảo trợ chết trong khi đang được hưởng an sinh xã hội hoặc được nhận tiền trợ cấp.

30. Ngoài ra, như đã nêu ở cácđoạn  20 và 21 ở trên, để thực hiện đầy đủ các quy định của Điều 9, các quốc gia thành viên, trong giới hạn các nguồn lực sẵn có, cần cung cấp những trợ cấp cho người có tuổi không đóng bảo hiểm và những hỗ trợ khác cho tất những người có tuổi mà vẫn chưa hoàn thành việc đóng bảo hiểm theo luật định và do đó không được hưởng trợ cấp người cao tuổi hoặc các lợi ích an sinh xã hội khác, cũng như không có nguồn thu nhập nào khác.

Điều 10: Bảo vệ gia đình

31. Trên cơ sở quy định ở khoản 1 Điều 10 của Công ước và các Kiến nghị 25 và 29 trong Kế hoạch hành động quốc tế Viên về vấn đề người cao tuổi, các quốc gia thành viên Công ước cần vận dụng mọi nỗ lực cần thiết để hỗ trợ, bảo vệ, giúp đỡ và nâng cao vai trò gia đình   phù hợp với hệ thống giá trị văn hoá của mỗi xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên cao tuổi sống phụ thuộc vào gia đình. Kiến nghị 29 khuyến khích các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ thiết lập các dịch vụ xã hội để hỗ trợ các gia đình có người cao tuổi và thực hiện các biện pháp đặc biệt để giúp những gia đình có thu nhập thấp nhưng mong muốn chăm sóc người cao tuổi ở nhà. Sự giúp đỡ này còn cần được cung cấp cho những người cao tuổi sống độc thân hay các cặp vợ chồng già muốn sống tại nhà mình.

Điều 11: Quyền hưởng tiêu chuẩn sống thích hợp

32. Trong những Nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về Người Cao tuổi, nguyên tắc đầu tiên   quy định rằng: “Người cao tuổi cần có quyền được đáp ứng các nhu cầu về ăn, uống, ở, mặc và chăm sóc sức khoẻ thông qua thu nhập, sự hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng và tự bản thân mình”. Uỷ ban nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc này, theo đó yêu cầu thực hiện những trợ cấp cho người cao tuổi nêu ở Điều 11 của Công ước này.

33. Các Kiến nghị từ 19 đến 24 của Kế hoạch hành động quốc tế Viên nhấn mạnh rằng vấn đề nhà ở cho người cao tuổi phải được nhìn nhận không chỉ đơn thuần là một nơi cư trú, mà cần tính đến việc bảo đảm những nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của họ. Theo đó, các chính sách quốc gia cần giúp đỡ người cao tuổi tiếp tục sống trong nhà của họ càng lâu càng tốt thông qua việc lưu giữ, phát triển và cải tạo nhà của để đáp ứng khả năng sử dụng của người cao tuổi (Kiến nghị 19). Kiến nghị 20 nhấn mạnh việc tái xây dựng đô thị, qui hoạch phát triển và việc xây dựng pháp luật cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề về tuổi tác, nhằm giúp người già hoà nhập vào xã hội. Trong khi đó, Kiến nghị 22 nhấn mạnh cần phải chú ý đến khả năng hoạt động của người già để cung cấp cho họ một môi trường sống tốt hơn và tạo điều kiện cho họ trong vấn đề đi lại và giao tiếp thông qua việc cung cấp các phương tiện giao thông thích hợp.

Điều 12. Quyền về sức khoẻ tinh thần và thể chất

34. Để hiện thực hoá quyền của người cao tuổi được hưởng tiêu chuẩn sức khoẻ tinh thần và thể chất ở mức cao nhất có thể, phù hợp với khoản 1 Điều 12 của Công ước, các quốc gia thành viên cần chú ý đến nội dung của các Kiến nghị từ 1 đến 17 trong Kế hoạch hành động quốc tế Viên, trong đó tập trung vào việc cung cấp những hướng dẫn về chính sách y tế để bảo vệ sức khoẻ cho người cao tuổi, với cách tiếp cận toàn diện từ việc phòng chống, hồi phục và chăm sóc tới khi họ qua đời.

35. Rõ ràng, sự phát triển của những căn bệnh thoái hoá mãn tính và những chi phí bệnh viện cao không thể được giải quyết chỉ bằng các biện pháp chữa bệnh. Về vấn đề này, các quốc gia thành viên Công ước cần lưu ý rằng việc duy trì sức khoẻ cho đến khi cao tuổi cần có sự đầu tư trong toàn bộ quãng đời, cơ bản là thông qua việc có một lối sống lành mạnh (ăn uống, luyện tập, không hút thuốc lá, bia rượu...) Việc phòng bệnh cũng như việc phục hồi thông qua các cuộc kiểm tra thường xuyên phù hợp với nhu cầu người cao tuổi đóng một vai trò quyết định trong việc duy trì khả năng hoạt động của người cao tuổi và giảm được chi phí đầu tư vào các dịch vụ xã hội và chăm sóc sức khỏe.

Các Điều từ 13 đến 15. Quyền giáo dục và văn hoá

36. Khoản 1 Điều 13 Công ước ghi nhận quyền được giáo dục của mọi người. Trong trường hợp người cao tuổi, quyền này phải được nhìn nhận theo hai quan điểm khác nhau và bổ sung cho nhau: (a) người cao tuổi có quyền hưởng lợi từ các chương trình giáo dục; và (b) người cao tuổi có thể truyền bí quyết và kinh nghiệm của mình cho thế hệ trẻ.

37. Như đã đề cập ở trên, các quốc gia thành viên Công ước cần chú ý: (a) những khuyến nghị trong Nguyên tắc 6 của các Nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về người cao tuổi có nội dung rằng người cao tuổi cần được tiếp cận với các chương trình giáo dục và đào tạo thích hợp và vì vậy trên cơ sở sự chuẩn bị, năng lực và mong muốn của mình, họ cần được tiếp cận các cấp độ giáo dục khác nhau thông qua việc lựa chọn các biện pháp phù hợp liên quan đến dạy chữ, giáo dục dài hạn, và đăng ký vào đại học...; (b) Kiến nghị 47 của Kế hoạch hành động Quốc tế Viên phù hợp với khái niệm giáo dục dài hạn do UNESCO ban hành, trong đó nêu rằng cần có các chương trình giáo dục không chính thức dựa vào cộng đồng và hướng về giải trí cho người cao tuổi nhằm phát triển khả năng độc lập của người cao tuổi và ý thức trách nhiệm của cộng đồng. Những chương trình như vậy cần được hỗ trợ bởi chính phủ và các tổ chức quốc tế.

38. Về việc sử dụng kinh nghiệm và bí quyết của người cao tuổi, Kiến nghị về giáo dục (đoạn 74-76) của Kế hoạch hành động quốc tế Viên nhấn mạnh rằng người cao tuổi đóng vai trò quan trọng trong mọi xã hội với tư cách là người chuyển giao những thông tin, kiến thức, truyền thống, các giá trị tinh thần và rằng sự chuyển giao quan trọng này cần phải duy trì. Vì vậy, Uỷ ban đã đưa tầm quan trọng đặc biệt này vào thông điệp nằm trong Kiến nghị 44 của Kế hoạch: “các chương trình giáo dục do người cao tuổi là giáo viên, là người chuyển giao kiến thức văn hoá và các giá trị tinh thần phải được phát triển”.

39. Trong Điều 15 đoạn 1 (a) và (b) của Công ước, các quốc gia thành viên Công ước ghi nhận quyền của mọi người được tham gia vào đời sống văn hoá và hưởng lợi ích từ việc phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Về vấn đề này, Uỷ ban kêu gọi các quốc gia thành viên Công ước chú ý đến những khuyến nghị nêu trong các Nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về người cao tuổi, đặc biệt ở Nguyên tắc 7, trong đó nêu rằng: “người cao tuổi cần tiếp tục hoà nhập vào xã hội, tham gia tích cực vào việc xây dựng và thực hiện các chính sách trực tiếp tác động đến cuộc sống của họ, chia sẻ kiến thức, kỹ năng của mình cho các thế hệ trẻ”; và Nguyên tắc 16, , trong đó nêu rằng: “người cao tuổi cần phải được tiếp cận với các nguồn giáo dục, văn hoá, tinh thần và giải trí của xã hội”.

40 Tương tự, Kiến nghị 48 của Kế hoạch hành động quốc tế Viên khuyến khích các chính phủ, các tổ chức quốc tế ủng hộ các chương trình nhằm giúp cho người cao tuổi dễ dàng hơn trong việc tham gia các hoạt động văn hoá (bảo tàng, nhà hát, hội trường hoà nhạc, rạp chiếu phim..)

41. Kiến nghị 50 nhấn mạnh yêu cầu đối với các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và bản thân người cao tuổi cần nỗ lực vượt qua những tâm lý tiêu cực về tuổi già và bệnh tật, về việc không có khả năng hoạt động độc lập và không còn vai trò trong xã hội. Những nỗ lực này, mà trong đó cần có sự tham gia của các cơ sở giáo dục và phương tiện thông tin đại chúng, là cần thiết để đạt đến một xã hội có sự hội nhập đầy đủ của người cao tuổi.

42. Về vấn đề quyền được hưởng các lợi ích của tiến bộ và ứng dụng của khoa học kỹ thuật, các quốc gia thành viên Công ước cần lưu ý đến các Khuyến nghị 60, 61, 62 của Kế hoạch hành động quốc tế Viên và phải nỗ lực để thúc đẩy các nghiên cứu về các lĩnh vực sinh học, tinh thần và xã hội của người cao tuổi, cũng như cần có những biện pháp để duy trì khả năng hoạt động phòng chống bệnh tật. Trong mối liên hệ này, các quốc gia, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ cần thiết lập các cơ sở chuyên đào tạo về tâm lý người già ở những quốc gia mà chưa có những viện này.

 

Chú thích

[1] Các mục tiêu toàn cầu về người cao tuổi đến năm 2001: Chiến lược thực tiễn. Báo cáo của Tổng thư ký (tài liệu mã số A/47/339),đoạn  5.

2 Báo cáo của Hội nghị thế giới về người cao tuổi, Viên, 26-7̣6/8/1982, ấn phẩm của Liên hợp quốc mã số E.82.I.16.

3 Nghị quyết 46/91 ngày 16/12/1991 của Đại hội đồng về “Thực hiện chương trình hànhđộng quốc tế về người cao tuổi và các hoạt động liên quan", Phụ lục.

4 Các mục tiêu toàn cầu về người cao tuổi đến năm 2001: Chiến lược thực tiễn  (tài liệu mã số A/47/339), chương III và IV.

5 Xem chú thích 1.

6 Xem Khuyến nghị số 162 (1980) về người cao tuổi của ILO, các khoản từ 3 đến 10.

7 Tài liệu trên, cácđoạn  từ 11 đến 19.

8 Tài liệu trên,đoạn  30.

 

 


* Phiên họp thứ 13 (năm 1995)

 

Drupal theme by Adaptivethemes - Design by Kodamera